Lịch sử Bokator

Bokator là một môn võ thuật cổ xưa của Campuchia được người Khmer sáng lập trên lãnh thổ Campuchia, ngay trước sự ra đời của nền văn minh Ấn Độ hơn 2.000 năm trước.[3]

Một số nghiên cứu cho thấy môn võ này có khả năng được sáng lập cùng thời với sự thành lập lãnh thổ Khmer. Câu chuyện này có thể được khám phá thông qua các truyền thuyết của người Khmer. Trãi qua nhiều thế hệ tổ tiên người Khmer, lịch sử xa xưa võ thuật Bokator được sáng lập từ một chiến binh dũng cảm đã dùng gậy, tay và đầu gối để đánh một con sư tử thường xuyên tấn công, giết hại và phá hủy tài sản của dân làng. Hơn nữa, bằng chứng thực tế về lịch sử võ thuật này đã được các nhà sử học phát hiện trên vách phù điêu tại ngôi đền cổ từ thế kỷ thứ IX như đền Preah Ko, Banteay Srey, Angkor WatBaphuon. Môn võ này cũng đã đặt nền tảng vững chắc trong truyền thống, văn hóa và đời sống hàng ngày của người dân Campuchia và trở thành một biểu tượng của văn hóa Campuchia cho đến ngày nay.[4]

Giống như các môn võ thuật khác của người Khmer, Bokator tập hợp rất nhiều chiêu thức và chiến thuật đều bắt chước theo thực tế tự nhiên về cuộc sống hàng ngày của con người thời đó và các cử chỉ của động vật như chim, ngựa, hổ, voi, khỉ, kinnara, cá sấu, cua, rắn, rồng, thậm chí cả vịt, v.v. Ngoài ra, hình thức võ thuật Bokator được nhúng vào trong nghệ thuật truyền thống của người Khmer như các trò chơi phổ biến,múa dân gian và múa cổ điển. Mỗi động tác và chuyển động của võ thuật đều được nhúng vào trong nghệ thuật, nó thể hiện sự nhẹ nhàn, hiền lành, sống động, mạnh mẽ, nhanh nhẹn và hành vi của con người trong xã hội. Môn võ này yêu cầu phải đánh tầm gần áp sát đối thủ bằng cách sử dụng cùi chỏ và đầu gối để làm cơ sở.[5]

Bokator được chia thành 12 bộ, trong đó bộ thứ 1 đến thứ 8 sử dụng thể hình và bộ thứ 9 đến thứ 12 sử dụng vũ khí, bao gồm vũ khí nguy hiểm và vũ khí không nguy hiểm. Vũ khí nguy hiểm như dao, kiếm, giáo, mũi tên và nỏ. Vũ khí không nguy hiểm như gậy ngắn, gậy dài, khiên và dùi cui,v.v. Ngoài ra, Bokator cũng có thể sử dụng một chiếc Krama để làm vũ khí. Cùng với động thái này, nó có khả năng linh hoạt để tự vệ trước các cuộc tấn công từ 8 góc và mọi thứ xung quanh nó có thể được sử dụng làm vũ khí.

Thời kỳ Angkor, võ thuật Bokator đã gắn bó sâu sắc với chiến lược phát triển và bảo vệ tổ quốc. Chiến binh Angkor là một minh chứng thực tế về sự bành trướng của đế chế Khmer đã bao trùm nhiều lãnh thổ ở vùng Đông Nam Á. Các hình phù điêu được khắc trên các bức tường của ngôi đền từ thế kỷ thứ IX đến thế kỷ XII, cho thấy nhà vua và tổ tiên của họ đã dùng võ thuật Bokator làm cơ sở quan trọng trong việc bảo vệ và xây dựng đất nước trong thời kỳ tiền Angkor, thời kỳ Angkor và thời kỳ hậu Angkor. Ngoài ra, Bokator luôn gắn liền với văn hóa dân tộc. Khi có lễ hội chẳng hạn như lễ Chol Chnam Thmay, lễ hội Đôn ta, lễ hội Ok om bok hoặc các lễ hội khác, người học võ Bokator thường hẹn nhau để đấu võ nhằm tạo không khí tưng bừng cho lễ hội.

Thời kỳ bảo hộ của thực dân Pháp từ năm 1863 đến 1953, các võ sĩ Bokator đã ẩn trốn vào chùa và ở những vùng xa xôi hẻo lánh, không có cơ quan tổ chức nào hỗ trợ và kiểm soát hệ thống lại cho chuẩn mực. Các tu sĩ và bô lão trong xã huyện đóng vai trò là người giữ gìn võ thuật này, rồi chuyển tiếp kiến thức võ thuật cho thế hệ tiếp theo mang tính bảo tồn, tự vệ chống lại sự cướp bốc và xây dựng lại một lực lượng nhằm chống lại áp bức bốc lột của thực dân Pháp.

Ông San Kim Sean, sinh ngày 24 tháng 03 năm 1945 là một võ sĩ sống ở châu Á. Ông được xứng danh là cha đẻ của Bokator hiện đại và phần lớn được cho là đã làm sống lại nghệ thuật của Campuchia.[6]

Từ năm 1975 đến 1979 Khmer Đỏ cai trị Campuchia đã làm cho võ thuật Bokator suy yếu nghiêm trọng. Giống như nhiều người dân Campuchia trên khắp đất nước, hàng loạt võ sĩ Bokator bị giết hại, di tản đến vùng sâu vùng xa và buộc phải làm việc vất vả. Các võ sư đã cố che giấu thân phận không dám luyện và đào tạo võ thuật Bokator nữa. Bất kỳ ai luyện võ và có hoạt động nào không được tổ chức Khmer Đỏ cho phép và bị nghiêm cấm tuyệt đối.

Sau sự sụp đổ của chế độ Khmer Đỏ vào tháng 01 năm 1979, do quân đội tình nguyện Việt Nam sang cứu giúp Campuchia, đáng tiếc các võ sĩ còn sống sót rất ít. Một số võ sư đã trốn sang nước ngoài và một số võ sư còn lại trong nước không thể tiếp tục sự nghiệp võ thuật. Bởi vì đất nước mới thoát khỏi từ nạn diệt chủng nên không đủ khả năng nghiên cứu và bảo tồn, võ thuật Bokator hầu như đã bị lãng quên và biến mất khỏi lịch sử Campuchia. Vì vậy ông San Kim Sean phải trốn khỏi Campuchia và sống lưu vong tại Hoa Kỳ dưới sự buộc tội của Việt Nam về việc phổ biến Hapkido và Bokator.

Khi ở Hoa Kỳ, ông San Kim Sean bắt đầu phổ biến Hapkido tại một lò luyện võ YMCA địa phương ở HoustonTexas. Một thời sau đó ông chuyển đến Long Beach, California. Trong thời gian sống ở Hoa Kỳ ông được mời giảng dạy và quảng bá Hapkido. Sau này ông San Kim Sean quyết định trở lại Campuchia để phục hồi và phát triển Bokator.

Năm 1992, ông San Kim Sean đã chính thức rời khỏi Hoa Kỳ và trở về nước để khôi phục, duy trì việc phát triển Bokator tại nơi đã khai sinh ra nó là Campuchia.

Năm 2001, ông San Kim Sean trở về Phnom Penh, được cố Quốc vương Norodom Sihanouk, thủ tướng Hun Sen cùng với sự quan tâm của các nhà lãnh đạo Chính phủ Hoàng gia Campuchia. Ông đã khôi phục lại tên tuổi võ thuật Bokator cùng với các vị tiền bối hơn 10 vị (đã ngoài 60 - 80 tuổi) còn sống sót từ chế độ Khmer Đỏ. Các võ sư đã làm việc chăm chỉ, nghiên cứu, biên soạn tài liệu, mở lò luyện võ, khuyến khích và tuyên truyền luyện tập võ thuật Bokator, thành lập các câu lạc bộ, hiệp hội trong cả nước.

Ngày 24 tháng 04 năm 2004, Ông thành lập thành công Liên đoàn Thể thao võ thuật Bokator Campuchia. Việc bảo tồn võ thuật Bokator là linh hồn của nền văn hóa dân tộc Khmer và cũng là di sản tổ tiên cho các thế hệ mai sau.

Kể từ khi thành lập Liên đoàn Thể thao võ thuật Bokator Campuchia, võ thuật Bokator nhận được nhiều sự ủng hộ từ công chúng thông qua việc biên tập các bộ phim, mời tham gia biểu diễn, tham gia thi đấu trong các chương trình lớn ở cấp quốc gia và quốc tế.

Ngoài ra, Chính phủ Hoàng gia Campuchia đã quyết định thành lập Ủy ban Liên bộ, kết hợp với Ủy ban Olympic Quốc gia Campuchia (NOCC) có sự liên kết mật thiết với Liên đoàn Võ thuật Thế giới (World Martial Arts Union) để tìm kiếm sự công nhận chính thức từ UNESCO đưa võ thuật Bokator vào di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại. Bộ Giáo dục Thanh niên và Thể thao Campuchia đã lồng vào chương trình giáo dục cấp trung học phổ thông, Quân đội Hoàng gia Campuchia cũng đưa môn võ thuật Bokator này vào hàng ngũ quân đội để huấn luyện.

Năm 2010, Bokator lần đầu tiên được tham gia thi đấu tại Liên đoàn Võ thuật Thế giới (WoMAU) tổ chức ở tỉnh Chungju, Hàn Quốc. Bokator đã giành được hạng 02 với sự tham gia của 10 quốc gia thành viên.

Năm 2011, võ thuật Bokator đã được đưa vào danh sách kiểm kê văn hóa phi vật thể quốc gia của Bộ Văn hóa và Mỹ thuật.

Năm 2011- 2018, Bokator liên tục tham gia thi đấu tại Liên đoàn Võ thuật Thế giới (WoMAU) được tổ chức thường niên ở tỉnh Chungju, Hàn Quốc. Với sự tham gia của hơn 18 quốc gia và 19 hiệp hội thành viên.[7]

Năm 2023, Bokator sẽ lần đầu tiên được đưa vào chương trình thi đấu chính thức tại SEA Games lần 32, do Campuchia đăng cai.[8]